Theo khuyến cáo mới về dinh dưỡng thì cần bình thường hoá về chế độ ǎn cho người tiểu đường không béo phì.

Chế độ ǎn là hết sức cần thiết trong điều trị bệnh đái tháo đường, song có nhiều quan niệm sai lầm xung quang việc khuyến cáo về dinh dưỡng từ trước tới nay trong công tác chữa bệnh. Bệnh nhân thường ǎn uống theo sự mách bảo là chủ yếu. Với tiến bộ của khoa học, của các loại thuốc điều trị ĐTĐ mới, ngày nay có xu hướng tự do hoá thành phần chất bột-đường trên cơ sở thoả mãn cùng lúc nhiều yếu tố như: cân bằng đường máu; giảm thiểu các yếu tố nguy cơ lên hệ tim-mạch, lên chức nǎng thận; tôn trọng sở thích cũng như thói quen của bệnh nhân và cả gia đình bệnh nhân với phương châm: Sức khỏe không chỉ là tình trạng có bệnh hay không mà còn là tình trạng thoải mái cả về thể chất cũng như tinh thần và xã hội .

Do vậy chế độ ǎn cần được điều chỉnh thích ứng cho từng bệnh nhân riêng biệt và phải thoả mãn đầy đủ một số yêu cầu cơ bản sau:
1- Đủ chất đạm- béo- bột- đường- vitamin- muối khoáng- nước với khối lượng hợp lý;
2- Không làm tǎng đường máu nhiều sau khi ǎn;
3- Không làm hạ đường máu lúc xa bữa ǎn;
4- Duy trì được hoạt động thể lực bình thường hàng ngày;
5- Duy trì cân nặng ở mức cân nặng lý tưởng hoặc giảm cân đến mức hợp lý;
6- Không làm tǎng các yếu tố nguy cơ như rối loạn mỡ máu, tǎng huyết áp, suy thận;
7- Phù hợp tập quán ǎn uống của địa dư, dân tộc, của từng bệnh nhân và gia đình;
8- Đơn giản và không quá đắt tiền;
9- Không nên thay đổi quá nhanh và nhiều cơ cấu cũng như khối lượng của các bữa ǎn.

Ăn để chữa bệnh

Thành phần carbonhydrat (chất bột - đường):
Là nguồn cung cấp nǎng lượng chính cho cơ thể, chiếm từ 60-70% tổng số calo hàng ngày. Theo quan niệm trước đây lượng carbohydrat cần phải hạn chế, song những quan sát về dịch tễ trên cộng đồng sử dụng nhiều carbonhydrat (người sống ở nông thôn, người có mức sống eo hẹp, thổ dân...) không thấy sự gia tǎng số người mắc ĐTĐ mà trái lại khi cộng đồng này có điều kiện hơn về dinh dưỡng (di cư, phát triển kinh tế) tiêu thụ nhiều chất béo và chất đạm hơn thường kéo theo bùng nổ về số người mắc ĐTĐ. Mặt khác nghiên cứu trên lâm sàng cho bệnh nhân ĐTĐ ǎn giàu carbonhydrat (tới 90% trong thời gian ngắn) với điều kiện tổng số calo vừa đủ không thấy làm tǎng đường máu. Do vậy khuyến cáo về chế độ ǎn hiện nay về thành phần carbonhydrat không còn hạn chế khắt khe như trước.

Vấn đề chủ yếu là ǎn các loại ngũ cốc toàn phần có đủ vitamin, chất xơ và muối khoáng. Các loại đường đơn và đường đôi nên tiêu thụ dưới dạng rau và hoa quả (có thể tới 10% tổng số calo trong ngày: ví dụ một người nặng 50 kg có thể ǎn 200-400g quả chín mỗi ngày). Lượng đường có trong từng loại thức ǎn cần được phổ biến rộng rãi cho bệnh nhân để tự họ có thể tính toán sao cho với các loại thức ǎn khác nhau được tiêu thụ nhưng không làm biến động quá nhiều tổng lượng carbonhydrat hàng ngày. Ước lượng tỷ lệ % lượng đường trong một số thức ǎn như sau: Sữa tươi hoặc sau khi đã pha có 5% đường; Rau xanh có từ 2-10%; Quả tươi có 5-15%; Bánh mỳ có 50-55%; Gạo có 75-80%; Cơm có khoảng 40%; Miến có 83%; Khoai củ có 20%.

Thành phần lipid (chất béo):
Tỷ lệ chất béo trong bữa ǎn người Việt Nam vốn không cao (chỉ chiếm từ 12-20% tổng số calo tiêu thụ hàng ngày theo điều tra dinh dưỡng nǎm 2000 của Viện dinh dưỡng quốc gia), khuyến cáo về tỷ lệ chất béo trước đây vào khoảng 25-30% áp dụng cho người Việt Nam là không thực tế vì:
- Không hợp khẩu vị của đa số người Việt Nam trong đó có người ĐTĐ.
- Tạo điều kiện cho tǎng mỡ máu ở người ĐTĐ vốn chiếm tới 40%.
- Tạo điều kiện cho béo phì phát triển thêm (có khoảng trên 40% số người ĐTĐ ở vào tình trạng thừa cân và béo phì với BMI > 23.

Do vậy tỷ lệ chất béo đóng góp trong khẩu phần ǎn cho người ĐTĐ nên duy trì như trong phạm vi người bình thường (từ 15-20%) là hợp lý. Tuy nhiên tỷ lệ chính xác là bao nhiêu phụ thuộc vào các đặc điểm cá thể người đó như: thói quen ǎn uống của bệnh nhân và gia đình, tình trạng béo phì, tǎng mỡ máu, huyết áp, lượng đường máu...Với người có nhiều yếu tố nguy cơ tim mạch, lượng chất béo nên hạn chế; với người gầy và không có yếu tố nguy cơ tim mạch, lượng chất béo có thể tǎng lên trên cơ sở bệnh nhân dung nạp được chế độ ǎn đó. Đối với người đái tháo đường type 2, điều chỉnh các yếu tố nguy cơ tim-mạch trong đó có rối loạn mỡ máu còn có lợi hơn so với điều chỉnh đường máu.

Nguồn gốc chất béo: vì đa số người ĐTĐ ở vào độ tuổi trên 60, tỷ lệ chất béo có nguồn gốc động vật/ thực vật nên là 50/50. Việc thay toàn bộ chất béo động vật bằng chất béo có nguồn gốc thực vật là không cần thiết (làm giảm lượng vitamin A, D tan trong mỡ động vật, khó chế biến thức ǎn...).

Lượng cholesterol ǎn hàng ngày dưới 300mg. Với các trường hợp có tǎng cholesterol và nguy cơ tim-mạch, lượng cholesterol ǎn vào nên ở mức dưới 200mg/ngày.

Thành phần chất protid (chất đạm):
Tỷ lệ chất đạm chiếm từ 10-20% tổng số calo hàng ngày tương ứng khoảng 0,8-1,2g/kg cân nặng (100g thịt nạc có khoảng 18g đạm, 100g gạo có khoảng 7g đạm). Với chế độ ǎn giàu đạm hơn có thể làm tổn thương thận do đái tháo đường (khoảng 30% người đái tháo đường có biến chứng thận). Mặt khác ǎn nhiều đạm về lâu dài gây chán ǎn và đắt tiền, tuy nhiên chế độ ǎn giàu đạm có thể được áp dụng trong thời gian ngắn khi đường máu còn cao và khi áp dụng chế độ ǎn giảm cân (giảm calo). Khi suy thận cần phải giảm lượng đạm tiêu thụ 0,6g/kg/ngày nhưng không được dưới 0,5g/kg/ngày vì sẽ dẫn đến suy dinh dưỡng.

Các yếu tố vi lượng và vitamin:
Việc sử dụng liều cao các chất chống ôxy hoá như vitamin C, vitamin E, beta caroten, selenium không được chứng minh có tác dụng bảo vệ bệnh tim-mạch, ung thư và ĐTĐ trong các thử nghiệm lớn có đối chứng với giả dược, thậm chí còn gây ra tác dụng phụ bất lợi.
Chỉ nên sử dụng nhiều loại vitamin liều thấp trong trường hợp cần thiết (suy nhược, kém hấp thu...) khi xác định có thể thiếu vitamin.
Tuy nhiên với phụ nữ có thai nên cung cấp thêm axit folic để phòng tránh dị dạng ống thần kinh và một số dị dạng khác; canxi (1000mg/ngày) để đề phòng các bệnh về xương.

Có uống được rượu không?
Rượu uống với lượng vừa phải (5-15g/ngày) làm giảm nguy cơ tim-mạch (có thể do rượu làm tǎng lượng HDL-cholesterol), nhưng nếu lạm dụng hơn mức trên rượu lại có tác động xấu lên sức khoẻ.
Với phụ nữ có thể dùng bia 340ml, rượu vang 140ml, rượu mạnh 42ml. Đàn ông có thể dùng gấp đôi lượng trên.

daithaoduong.vn

Post a Comment Blogger

 
Top